"gịng sông chảy nước ban sự sống"

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

Phần Hai

"Nước Ban Sự Sống": Đức Tin

 

Truyền Bá Đức Tin

 

                Nói đến đạo thường là nói đến Đức Tin. Bởi thế, tử v́ Đạo mới là chết v́ Đức Tin, bỏ Đạo tức là bỏ Đức Tin và truyền Đạo là truyền bá Đức Tin.

                Như vậy, theo ư nghĩa, Đức Tin đồng nghĩa với Đạo, là mầu nhiệm của Đạo và là biểu hiệu cho Đạo, và trên thực tế, Đức Tin chẳng những là việc chấp nhận Đạo mà c̣n là việc phản ảnh Đạo nữa.

                Nếu Đức Tin là biểu hiệu cho Đạo th́ văn hóa là biểu hiệu cho đời. Đức Tin phản ảnh Đạo ra sao th́ văn hóa cũng phản ảnh đời như vậy. Nếu Đạo thuộc về trời thế nào th́ đời cũng thuộc về con người như vậy. V́ Đạo liên quan đến mạc khải và đời liên quan đến nhân tạo.

                Mà nói đến mạc khải là nói đến những ǵ thần linh, chân thật nhất và trọn hảo nhất. Trong khi đó, nói đến nhân tạo là nói đến những ǵ phàm tục, tạm bợ và tương đối. Do đó, văn hóa của con người và làm nên con người phải được thần linh hóa bởi mạc khải mới trọn hảo và bền vững.

                Như thế, Đạo hiện hữu là v́ đời và cho đời. Và đă là Đạo th́ phải là Đạo nhập thể (incarnation) và cứu thế (salvation). Đạo nào không có tính cách hội nhập văn hóa (inculturation) và biến đổi văn hóa (transculturation) th́ không thực sự là và hoàn toàn là Đạo.

                Theo bản chất được mạc khải của ḿnh, Kitô giáo thực sự là một thiên Đạo. Thế nhưng, Kitô giáo c̣n là một Đạo nhập thế nữa, qua các công tŕnh về giáo dục và bác ái khắp thế giới, được thực hiện bởi việc truyền bá Đức Tin.

 

 

10.  Hạt Giống Đức Tin: Lời Chúa

 

"Nói đến mạc khải, trước tiên và trên hết, phải nói đến chủ thể mạc khải, tức mạc khải từ đâu mà có hay ai đă thực hiện việc mạc khải" (trang 31). Cũng thế, nói đến Đức Tin, trước hết và trên hết, phải nói đến nguồn gốc đức tin, tức đức tin từ đâu mà có hay tác nhân làm nên đức tin.

 

Thật ra, nếu mạc khải là việc của Thiên Chúa và trực tiếp liên quan đến Thiên Chúa th́ đức tin là việc của loài người và trực tiếp liên quan đến loài người. Tuy nhiên, không phải v́ thế, v́ đức tin là việc của loài người và trực tiếp liên quan đến loài người, mà đức tin phát xuất từ loài người hay loài người là chủ thể của đức tin như Thiên Chúa là chủ thể mạc khải. Bởi v́, nếu mạc khải là việc Thiên Chúa tỏ ḿnh ra cho loài người nơi Con của Ngài "để ai tin sẽ không phải chết song được sự sống đời đời" (Jn.3:16), th́ đức tin là việc con người "được sinh lại từ trên cao" (Jn.3:3) để có thể chấp nhận mạc khải của Thiên Chúa, tức đức tin là phản ánh nơi con người "ánh sáng chiếu trong tăm tối" (Jn.1:5).

Thật vậy, chính v́ đức tin là phản ánh nơi con ngươi "ánh sáng chiếu trong tăm tối", tức phản ảnh mạc khải của Thiên Chúa như thế mà giáo lư Công Giáo dạy đức tin là do Thiên Chúa ban cho Kitô hữu khi họ lănh nhận Bí Tích Rửa Tội tái sinh. Và cũng chính v́ thế, v́ đức tin là phản ảnh mạc khải của Thiên Chúa, mà trước khi được lănh nhận Bí Tích Rửa Tội tái sinh, họ cũng đă có đức tin (chứ không phải "ḷng tin"), bằng không ơn cứu độ và sự công chính sẽ không phải từ Thiên Chúa cho bằng từ loài người mà có.

 

Đúng thế, đức tin trước khi lănh nhận Bí Tích Rửa Tội và đức tin từ khi lănh nhận Bí Tích Rửa Tội cũng chỉ là một, một tác động thần linh nơi con người để "con người (vốn) thích tối tăm hơn ánh sáng" (Jn.3:19) có thể chấp nhận mạc khải của Thiên Chúa là "tất cả sự thật" (Jn.16:13) về Thiên Chúa, của Thiên Chúa và nơi Thiên Chúa, được "Thiên Chúa Ngôi Con duy nhất hằng ở nơi Cha tỏ ra cho" (Jn.1:18). Như thế, đức tin quả thật được phát xuất từ Đức Giêsu Kitô là Thực Tại Mạc Khải (chương 4), tức là "tất cả sự thật" (Jn.16:13) Thiên Chúa muốn mạc khải, v́ Người là "Lời đă hóa thành nhục thể" (Jn.1:14) như "ánh sáng chiếu trong tăm tối" (Jn.1:5), đồng thời Người cũng là một nông phu đi gieo hạt giống thần linh vào thửa ruộng trần gian (x.Mt.13:24,37-38).

 

Sau đây là phần tŕnh bày về Lời Chúa là căn nguyên của đức tin và là tác nhân của đức tin. Cũng giống như các phần khác trong cuốn sách này, thể thức tŕnh bày mỗi vấn đề sẽ theo thứ tự như sau:

1- Xác Tín vấn đề (giáo lư).

2- Mạc Khải vấn đề (Lời Chúa).

3- Nhận Thức vấn đề (diễn giải).

 

XX- Lời Chúa: Căn Nguyên Đức Tin

 

 

Xác Tín 24          

 

 

                Lời Chúa là căn nguyên của Đức Tin bởi v́ chỉ có thần linh mới ban sự sống, chứ tự ḿnh xác thịt không thể nào chấp nhận nổi mạc khải thần linh cũng như không thể nào thấu nhập được thực tại siêu linh.

 

 

 

Mạc Khải

 

"Những lời Thày đă nói với các con là thần linh và là sự sống" (Jn.6:63).

 

"Mặc dầu là Con, Người cũng biết vâng phục nơi những ǵ phải chịu' và khi thành toàn, Người đă trở nên căn nguyên cứu độ đời đời cho tất cả những ai tín phục Người" (Heb.5:8-9)

               

 

Nhận Thức

 

Nếu đức tin là phản ảnh tất cả mạc khải thần linh th́ đức tin phải là kho tàng chứa đựng tất cả mạc khải, đúng như Chúa Giêsu đă dùng dụ ngôn ám chỉ: "Triều đại Thiên Chúa giống như một kho tàng được chôn giấu mà người kia t́m thấy trong một thửa ruộng" (Mt.13:44). V́ đức tin chất chứa cả một kho tàng mạc khải thần linh như thế mà mạc khải thần linh chính là nhân trung của đức tin, tức là căn nguyên hay nguyên lư làm nên hạt giống đức tin. Đến nỗi, nếu không có mạc khải thần linh cũng không có đức tin, và nếu không phải là mạc khải thần linh đích thực th́ cũng không phải là đức tin chân chính và chân truyền.

 

Thật vậy, tất cả mạc khải thần linh ở đây là ǵ, nếu không phải, như phần thứ nhất của cuốn sách đă t́m hiểu và tŕnh bày, là Đức Giêsu Kitô, "Lời đă hố thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Jn.1:14) để Thiên Chúa có thể qua Người và nhờ Người mà truyền thông (mạc khải) bản thân của Ngài cũng như để truyền đạt (mạc khải) tâm ư của Ngài cho tạo vật của Ngài. Chính Đức Giêsu Kitô là bản thân của Thiên Chúa, Đấng Thiên Chúa đă ban cho thế gian (x.Jn.3:16), để "ai thấy Con là thấy Cha" (Jn.14:9). Đức Giêsu Kitô đến thế gian chẳng những để tỏ ḿnh ra là Con Thiên Chúa, là bản thân sống động của Thiên Chúa, mà c̣n để hoàn tất tâm ư của Thiên Chúa là những ǵ Cha đă trao cho Người (x.Jn.17:4), để loài người có thể qua Người mà đến cùng Cha (x.Jn.14:6). 

 

Do đó, nếu Đức Giêsu Kitô là tất cả mạc khải thần linh, tức  là nhân trung của đức tin, là căn nguyên làm nên đức tin, th́ đức tin tinh tuyền và chân chính nhất phải là một đức tin bao hàm cách nguyên trọn và măi măi một "Đức Giêsu Kitô  hôm qua, hôm nay và muôn đời vẫn thế" (Heb.13:8), một Đức Giêsu Kitô được các thánh tông đồ là những chứng nhân tiên khởi của Người ghi lại đối chiếu với Cựu Ước, cũng như được chính các tông đồ chứng thực, bằng cách rao giảng cho muôn dân, và nhất là truyền lại cho các vị thừa kế trực tiếp của các ngài như một Thánh Truyền của Giáo Hội và cho Giáo Hội là thẩm quyền tối cao trong việc dẫn giải và truyền dạy "tất cả sự thật" (Jn.16:13) được chất chứa nơi kho tàng mạc khải của Thiên Chúa.

 

V́ nội dung của đức tin là "Đức Giêsu Kitô hôm qua, hôm nay và muôn đời vẫn thế" mà đức tin của các thánh tông đồ, của những vị chứng nhân tiên khởi, cũng như của các giáo phụ, của các thánh nhân, của các Kitô hữu, qua mọi đời và ở khắp mọi nơi trên thế giới, cũng chỉ là một và cũng chỉ có một mà thôi. Đức tin chân truyền chỉ là một và chỉ có một này, bởi được xây trên tảng đá góc là Đức Giêsu Kitô và trên nền tảng các tông đồ, sẽ trở thành một đền thờ vô cùng linh thiêng và vững chắc (x.Eph.2:20), cho dù  băo tố và hận thù hỏa ngục có liên lỉ công phá đi nữa, vĩnh viễn sẽ không bao giờ bị sụp đổ (x.Mt.7:25,16:18)

 

Do đó, hễ bao giờ Đức Giêsu Kitô là "tất cả sự thật" (Jn.16:13), là tất cả những ǵ Thiên Chúa muốn mạc khải cho loài người, được tuyên xưng và rao truyền khác với đức tin mà thánh Phêrô, đại diện cho riêng thành phần chủ chiên, cũng như cho chung cả đoàn chiên Kitô hữu, đă tuyên xưng: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt.16:16), th́ bấy giờ xẩy ra những lạc thuyết, những bè rối, như đă từng xẩy ra trong suốt gịng lịch sử của Giáo Hội cho đến ngày nay, nhất là vào thời tận thế, thời mà các kitô giả và các tiên tri giả xuất hiện khắp nơi, đến nỗi có thể đánh lừa được cả thành phần được tuyển chọn (x.Mt.24:24).

 

Lịch sử Giáo Hội đă cho thấy, trong thời các vị giáo phụ, tức thời của 7 Công Đồng Chung đầu tiên, có những lạc thuyết trực tiếp liên quan đến nền tảng Kitô học. Theo thứ tự thời gian, những lạc thuyết sau đây đă xuất hiện và đă bị các Công Đồng Chung phi bác như sau. Lạc thuyết Ariô bị Công Đồng Chung Nicêa I năm 325 lên án v́ chủ trương Chúa Kitô được dựng nên do đó Người không hằng hữu và ngang hàng với Thiên Chúa. Lạc thuyết Nestôriô bị Công Đồng Chung 'phêsô năm 431 luận bác v́ phủ nhận ngôi vị thiên nhân lưỡng tính của Chúa Kitô. Lac thuyết Mônôphysitô bị Công Đồng Chalcêđô năm 451 lên án v́ chủ trương Chúa Kitô chỉ có thiên tính mà không có nhân tính. Lạc thuyết Mônôthêlithô bị Công Đồng Chung Côntantinôpôli III năm 680 luận bác v́ chủ trương Chúa Kitô có hai bản tính song chỉ có một ư muốn mà thôi. Và lạc thuyết Adoptiôniô bị Công Đồng Chung Nicêa II năm 787 lên án v́ chủ trương Chúa Kitô theo thiên tính là Con Chúa Cha song theo nhân tính lại là con thừa nhận của Chúa Cha.

 

Hiện tượng lạc thuyết c̣n cho thấy kho tàng mạc khải vô cùng phong phú vẫn c̣n cần được khám phá và khai thác cho đến khi Đức Giêsu hoàn toàn tỏ hiện. Phải, cho đến khi Chúa Giêsu hoàn toàn tỏ hiện vào lần đến cuối cùng của Người, Người vẫn liên tục tỏ ḿnh ra cho Giáo Hội là thân thể của Người. Nhờ "Thần Chân Lư là Đấng chính Người từ Cha sai đến" (Jn.15:26) để "dẫn (Giáo Hội) vào tất cả sự thật" (Jn.16:13), một sự thật mà tự các thánh tông đồ, cho dù c̣n ở với Thày chí thánh của ḿnh, cũng "không thể nào thấu triệt" (Jn.16:12), mà Giáo Hội càng ngày càng nhận biết phu quân của ḿnh hơn.

 

Giáo Hội tỏ ra càng ngày càng nhận biết phu quân của ḿnh hơn nữa qua những lần công bố tín điều, không phải chỉ để, như trước đây vẫn làm, tái xác tín đức tin chân truyền của ḿnh liên quan trực tiếp đến các mạc khải về Đức Kitô bị các lạc thuyết tuyên truyền sai lạc, mà c̣n để, từ thế kỷ 19, tuyên xưng đức tin sâu xa của ḿnh cần phải được sáng tỏ, vào thời điểm của nó, như khi Giáo Hội, qua Công Đồng Chung Vaticanô I năm 1870, công bố tín điều bất khả ngộ của Đức Giáo Hoàng, qua việc ngài chính thức lấy quyền tối thượng của ḿnh mà tuyên bố những ǵ liên quan đến tín lư cũng như luân lư, hay qua Đức Piô IX năm 1854 tuyên bố tín điều Mẹ Maria được ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội ngay từ giây phút đầu thai trong ḷng thai mẫu, và qua Đức Piô XII năm 1950 công bố tín điều Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời sau khi măn phần thế gian, và hy vọng sắp đến lúc Giáo Hội công bố tín điều Mẹ Maria Đồng Công Cứu Chuộc.

 

Tuy nhiên, không phải lúc Giáo Hội công bố tín điều đức tin th́ lúc bấy giờ Giáo Hội mới tin, hay lúc bấy giờ đức tin mới có nơi Giáo Hội, liên quan đến tín điều Giáo Hội định tín. Như trên đă nhận định, v́ nội dung hay nhân trung của đức tin là "Đức Giêsu Kitô hôm qua, hôm nay và muôn đời vẫn thế" (Heb.13:8) mà đức tin của Giáo Hội là một đức tin chân truyền (chân chính và tông truyền), một đức tin không thay đổi, một đức tin duy nhất. Tuy nhiên, đức tin nguyên thủy này chẳng khác ǵ như ánh sáng từ "Mặt Trời Công Chính" (Mal.3:20) là Đức Giêsu Kitô chiếu tỏa, qua thời gian, càng lên cao sẽ càng chói chang, hay như một hạt giống, tự bản chất đă chất chứa đầy đủ sự sống nơi nhân trung của ḿnh, qua thời gian, cũng cần phải được mọc lên  cho đến khi "phát triển đến tầm vóc thành toàn của Chúa Kitô là đầu" (Eph.4:15).

 

Vâng, chính "tầm vóc thành toàn của Chúa Kitô là đầu" làm cho đức tin nơi Kitô hữu nói riêng và nơi Giáo Hội nói chung được nên trọn như thế đă chứng thực "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt.16:16), "tất cả sự thật" (Jn.16:13) Thiên Chúa muốn mạc khải cho loài người, thực sự Người chẳng những là đối tượng của đức tin Kitô giáo hướng tới và là mục tiêu cho đức tin Kitô giáo cần phải đạt thành mà c̣n là căn nguyên thực sự làm nên đức tin Kitô giáo nữa.

 

Và cũng chính v́ Đức Giêsu Kitô là căn nguyên thực sự làm nên đức tin Kitô giáo, tức là nhân trung của đức tin Kitô giáo, là nền tảng của đức tin Kitô giáo, mà trên thực tế và trong thực hành, Người c̣n là chính tác nhân của đức tin Kitô giáo, tức là chính động lực làm cho hạt giống đức tin Kitô giáo, một đức tin được lănh nhận từ ban đầu nơi các tông đồ, cũng là đức tin được truyền ban cho các Kitô hữu khi họ lănh nhận bí tích rửa tội, có thể phát triển cho đến khi Người đạt đến tầm vóc vẹn toàn của ḿnh (x.Eph.4:13) nơi mỗi một Kitô hữu cũng như nơi chung thân thể của Người là Giáo Hội.

 

Đó là vấn đề sẽ được t́m hiểu và tŕnh bày trong phần thứ hai của chương 10 sau đây.

 

 

 

XXI- Lời Chúa: Tác Nhân Đức Tin

 

 

Xác Tín 25          

 

 

                Lời Chúa là tác nhân của Đức Tin bởi v́ tính cách nhập thể của Lời Chúa cùng với tác dụng của Lời Chúa từ bên trong thành phần lănh nhận Đức Tin.

 

 

 

Mạc Khải

 

"Nếu qúi vị sống theo giáo huấn của Tôi, qúi vị thực sự là môn đệ của Tôi' rồi qúi vị sẽ nhận biết sự thật và sự thật sẽ giải thốt qúi vị" (Jn.8:31-32).

 

"Tôi bảo thật cho qúi vị hay, mọi người sống trong tội lỗi th́ làm nô lệ cho tội lỗi... Đó là lư do tại sao nếu qúi vị được Con giải thốt cho th́ qúi vị sẽ thực sự có tự do" (Jn.8:34,36).

 

Nhận Thức

 

Nếu đức tin là phản ảnh mạc khải của Thiên Chúa, và mạc khải của Thiên Chúa là nhân trung của đức tin, th́ mạc khải của Thiên Chúa hay Lời Thiên Chúa, Lời nhập thể, cũng là tác nhân của đức tin nữa. Đúng thế, tác nhân làm cho hạt giống nẩy mầm là nhân trung của nó chứ không phải là vỏ của nó' nếu nhân trung của hạt giống không nẩy mầm th́ vỏ của nó sẽ không bao giờ nẩy nở. Cũng thế, tác nhân của việc sinh con không phải là thai mẫu mà là thai nhi' nếu thai nhi không đạp bụng mẹ đ̣i ra th́ thai mẫu có cố hết sức tự nhiên cũng không thể nào tự ḿnh sinh ra thai nhi  trước giờ ấn định là thời điểm thai nhi thúc động mẹ ḿnh.

 

Mạc khải là việc Thiên Chúa "nói với chúng ta" (Heb.1:2) nên nội dung và thực tại của mạc khải mới chính là Lời Chúa, Lời nhập thể, để Thiên Chúa, qua Lời của Ngài, có thể thông đạt "tất cả sự thật" (Jn.16:13) của Thiên Chúa, về Thiên Chúa và nơi Thiên Chúa cho tạo vật của Ngài. Và v́ Lời nhập thể Thiên Chúa "muốn nói với chúng ta" đây là "Đức Giêsu Kitô ở trong ḷng anh em nhờ đức tin" (Eph.3:17), như nhân trung ở trong một hạt giống được gieo vào nhân tính của loài người, mà Người đă từng làm cho đức tin nơi các thánh nhân nói riêng và Kitô hữu nói chung lớn mạnh cùng sinh nhiều hoa trái.

 

Thật vậy, khi phán với người đàn bà bị hoại huyết 12 năm âm thầm sờ đến áo ḿnh rằng "đức tin của con đă làm cho con lành lại" (Mt.9:22), hay khi phán với người mù ăn xin ngồi bên vệ đường bất chấp bị đám đông nạt nộ cứ kêu xin Người chữa lành cho rằng "đức tin của con đă chữa con" (Mk.10:52), hoặc khi phán với người đàn bà tội lỗi có tiếng trong thành ăn năn thống hối dưới chân ḿnh rằng "đức tin của con đă cứu con" (Lk.7:50), th́ không phải là Người chỉ nhấn mạnh đến đức tin nơi con người là điều kiện ắt có và đủ để Người làm phép lạ, cũng như để con người có thể nhờ đó mà "được thấy vinh hiển của Người, vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lư" (Jn.1:14), đúng như Người đă nói với Matta trước khi Người làm cho Lazarô sống lại: "Thày đă chẳng quả quyết với con rằng nếu con tin th́ con sẽ thấy vinh hiển của Thiên Chúa tỏ hiện hay sao?" (Jn.11:40).

 

Bởi v́, nếu Thiên Chúa không tỏ ḿnh ra th́ con người cũng chẳng biết đâu mà tin, nghĩa là cũng chẳng có đức tin. Thế nên mới nói đức tin chỉ là phản ảnh mạc khải của Thiên Chúa và mạc khải của Thiên Chúa vừa là căn nguyên của đức tin lại vừa là tác nhân cho đức tin. Không phải hay sao, nếu theo bộ Phúc Âm nhất lăm của các thánh kư Mathêu, Marcô và Luca, đức tin nơi con người cần phải hiện hữu trước để họ có thể được thấy vinh hiển của Thiên Chúa tỏ hiện nơi Lời nhập thể của Ngài là Đức Giêsu Kitô, th́ theo Phúc Âm thánh Gioan, vinh quang của Thiên Chúa lại tỏ hiện trước để làm cho con người tin, như trường hợp ở tiệc cưới Cana: "Chúa Giêsu đă làm phép lạ thứ nhất này ở Cana xứ Galilêa. Vậy Người đă tỏ vinh hiển của Người và các môn đệ của Người đă tin vào Người" (Jn.2:11), hay như trường hợp Người hóa 5 ổ bánh và 2 con cá ra nhiều để nuôi 5 ngàn người, trước khi Người tỏ cho họ biết rằng "đây là công việc của Thiên Chúa, đó là qúi vị hăy tin vào Đấng mà Ngài sai" (Jn.6:29), cũng như trước khi Người bắt đầu tỏ ḿnh cho họ biết rằng "chính Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời' bánh Tôi sẽ ban là thịt của Tôi cho thế gian được sự sống" (Jn.6:51).

 

Thế nhưng, nếu Lời Chúa là tác nhân của đức tin, nghĩa là động lực làm cho con người tin vào những việc của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô là Đấng Ngài sai, và nếu "Lời Chúa sống động và hiệu lực, sắc hơn cả thanh gươm hai lưỡi. Lời Chúa phân thấu tận linh hồn, tâm linh cùng xương tủy" (Heb.4:12), bằng chứng là, trong lịch sử của Giáo Hội, Lời Chúa đă đánh động bao nhiêu tâm hồn từ bỏ mọi sự theo Chúa nơi đời sống tu tŕ hay sẵn sàng làm chứng cho Người đến giọt máu cuối cùng, th́ tại sao lại có chuyện "Người không thể làm phép lạ ở đó... v́ họ thiếu đức tin đến nỗi đă làm cho Người phiền muộn" (Mk.6:5-6), chuyện "mặc dầu Người đă làm nhiều sự lạ trước mặt họ, họ vẫn không chịu tin vào Người" (Jn.12:37), cũng như chuyện "từ đó trở đi có nhiều môn đệ bỏ đi không ở với nhóm của Người nữa" (Jn.6:66) v́ họ cảm thấy rằng bài giảng về Bánh Hằng Sống của Người "chói tai! Ai mà nghe cho nổi?" (Jn.6:60).

 

Đúng thế, chính hiện tượng "thiếu đức tin" hay "không chịu tin" nơi dân chúng và sự kiện "bỏ đi" này nơi thành phần các môn đệ của Chúa, lại càng nói lên mạc khải của Chúa hay Lời Chúa chẳng những là căn nguyên của đức tin mà c̣n là tác nhân của đức tin nữa. Bởi v́, theo nguồn gốc và bản chất siêu nhiên của ḿnh, đức tin không phát xuất từ trần gian, từ xác thịt, nghiă là từ con người muốn tin là được, hay con người tin cái ǵ là có cái đó, hoặc con người tin ra sao th́ là như vậy, trái lại, đức tin "từ trên cao" (Jn.3:3) mà có.

 

Do đó, sau khi nghe thánh Phêrô tuyên xưng "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt.16:16), Chúa Kitô đă minh xác đức tin của thánh nhân: "không phải do thuần loài người... mà là do Cha trên trời" (Mt.16:17). V́, "chính thần linh mới ban sự sống, c̣n xác thịt th́ vô dụng" (Jn.6:63) như thế mà ngay sau khi thánh Phêrô tuyên xưng đức tin liền bị Thày quở trách hết sức thậm tệ, v́ thánh nhân đă "không phán đốn theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa song chỉ theo tiêu chuẩn của loài người mà thôi" (Mt.16:23) trước mạc khải của Thiên Chúa về một "Đức  Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" lại là Đấng sẽ bị tử nạn rồi mới phục sinh (x.Mt.16:21).

 

Chính v́ con người "thiếu đức tin", ở chỗ "phán đốn chỉ theo tiêu chuẩn của loài người" như thế mà cho dù có được Thiên Chúa mạc khải cho thấy, con người cũng không nhận ra "tất cả sự thật" (Jn.16:13), trái lại, họ c̣n phạm tội "lộng ngôn" (Mt.12:31,32) nữa là đàng khác. Như trường hợp khi Người làm phép lạ trừ qủi ám cho một người vừa mù vừa câm th́ những người Pharisiêu lại cho rằng "người này chỉ có thể trừ qủi nhờ tướng qủi là Beelzebul giúp" (Mt.12:24). Và cũng để tránh cho con người "thiếu đức tin" khỏi vấp phạm tội "lộng ngôn", mà đôi khi Chúa Giêsu đă quyết định không làm phép lạ hay không tỏ ḿnh ra, v́  Người đă phán: "Đừng cho chó những của thánh hay vứt ngọc ngà trước mặt con heo. Chúng sẽ giầy đạp những thứ này dưới chân th́ chớ chúng lại c̣n có thể quay ra cắn xé ḿnh nữa" (Mt.7:6).

 

Chính "phán đốn theo tiêu chuẩn của loài người" đă đặt ra vấn đề tại sao Thiên Chúa không làm phép lạ cho con người thiên về khoa học thực nghiệm ngày nay tin để họ có thể dễ dàng trở về cùng Chúa hơn. Nói như thế có nghĩa là "phán đốn của Thiên Chúa" không mấy khôn ngoan, nếu không muốn nói là đần độn, v́ Ngài không biết cách thức tốt nhất cùng thời điểm thuận lợi nhất để lôi cuốn con người đến với ḿnh. Tiếc thay, thực tế đă cho thấy, những ai chỉ mong thấy phép lạ, dấu lạ hay điềm lạ mới chịu tin th́ lại là thành phần dễ bị lừa đảo nhất trong thời tận thế là thời của các tiên tri giả và kitô giả (x.Mt.24:5,11,24), bởi v́ ai cũng có thể là Chúa của họ miễn là vị Chúa này làm được những sự họ không làm được.

 

Quyền năng là ưu phẩm của Thiên Chúa chứ không phải là bản tính của Ngài, do đó, mạc khải của Thiên Chúa không phải chỉ ở tại việc làm những phép lạ cho tạo vật kính sợ và tín phục, cho bằng ở tại việc tỏ ra bao dung nhân hậu, một bản tính tuyệt đối trọn lành không thể nào có nơi bất cứ một tạo vật hay thần linh nào không phải là "Thiên Chúa chân thật duy nhất" (Jn.17:3) như Ngài. Đó là lư do Chúa Giêsu đă phân định: "Nói đằng nào dễ hơn 'tội lỗi của con đă được thứ tha' hay 'hăy đứng lên mà bước đi'" (Mt.9:5). "Thiên Chúa là t́nh yêu" (1Jn.4:8,16) đă tỏ ḿnh qua việc nhập thể và cứu thế, nên luật lệ cũng như lời các tiên tri của Ngài được tóm lại trong đức yêu thương (x.Mt.22:40), đến nỗi, "nếu họ không nghe Moisen và các tiên tri th́ cho dù kẻ chết có hiện về họ cũng không tin đâu" (Lk.16:31).

 

Nếu "Moisen", tiêu biểu cho lề luật và "các tiên tri", tiêu biểu cho tiếng lương tâm, là các yếu tố chính yếu và chân thực hơn cả phép lạ bề ngoài để làm cho con người tin, th́ Lời Chúa hay mạc khải của Thiên Chúa quả thật là tác nhân cho đức tin của con người, và việc giữ lề luật cũng như nghe theo tiếng lương tâm chân chính hướng về một đức ái trọn hảo chính là việc sống đức tin, nhờ đó, mạc khải Thiên Chúa hay Lời Chúa được sáng tỏ, v́ đức tin chính là phản ảnh mạc khải của Thiên Chúa nơi con người sống đức tin.

 

INDEX